7/28/2022 0 Comments Lịch Sử Loài Chim Công Lam Ấn ĐộChim công ấn độ là một trong những giống chim cảnh rất đẹp. Dưới đây đá gà blv xin giới thiệu là lịch sử của loài chim công lam ấn độ. Lịch sử của loài công lam Ấn ĐộCông Ấn Độ hay Công lam (danh pháp hai phần: Pavo cristatus), một loài chim lớn và sắc màu rực rỡ, là một loài chim công có nguồn gốc từ Nam Á, nhưng đã được du nhập đến nhiều nơi trên thế giới như Tây Song Bản Nạp (Trung Quốc), Thái Lan, Hoa Kỳ, Mexico, Honduras, Colombia, Guyana, Suriname, Brazil, Uruguay, Argentina, Nam Phi, Madagascar, Mauritius, Réunion, Indonesia, Papua New Guinea và Australia. Loài này lần đầu tiên được đặt tên và được mô tả bởi Linnaeus vào năm 1758, và danh pháp Pavo cristatus được tận dụng đến ngày nay. Đặc điểm của loài Công LamCông trống chủ yếu có màu xanh lam với chiếc mào cánh quạt gồm những sợi lông hình sợi cáp nối với phần chóp có hình cái bàn xẻng. Nổi bật bởi nhiều chuỗi dài những đốm hình mắt đầy màu sắc ghép vào mặt trên từng chiếc lông đuôi thon dài thướt. Những chiếc lông cứng được nâng lên thành hình cánh quạt và vỗ nhẹ trong các màn xòe đuôi tán tỉnh công mái. Công mái không có chuỗi đốm mắt rực rỡ, không có bộ đuôi dài, cổ xanh lục thấp và bộ lông màu nâu xỉn. Công lam Ấn Độ sống chủ yếu trên mặt đất tại vùng rừng xanh thông thoáng hoặc trên đất canh tác, nơi chúng tìm kiếm quả mọng, ngũ cốc, nhưng chim công cũng ăn con mồi như rắn, thằn lằn và gặm nhấm nhỏ. Tiếng kêu inh ỏi khiến chim công dễ bị phát hiện, trong cánh rừng đó thường báo hiệu sự hiện diện của động vật ăn thịt như loài hổ. Chim công kiếm ăn trên mặt đất theo đàn nhỏ, thường cố vượt qua bụi rậm bằng chân và tránh bay, mặc dù chim công cũng bay lên cây cao để đậu. Chức năng của chuỗi đốm mắt lộng lẫy trên đuôi công đã được tranh luận trong hơn một thế kỷ. Vào thế kỷ XIX, Charles Darwin cho đó là một câu đố, khó để giải thích thông qua thuyết chọn lọc tự nhiên thông thường. Lời giải thích về sau của ông, chọn lọc giới tính, được công bố rộng rãi nhưng không được chấp nhận. Trong thế kỷ XX, Amotz Zahavi lập luận rằng chuỗi đốm mắt là một sự bất lợi, và công trống báo hiệu thẳng thắn trường hợp khỏe mạnh của chúng sẽ mật độ thuận với sự lộng lẫy của những chuỗi đốm mắt trên đuôi. Mặc dù nghiên cứu sâu rộng nhưng quan niệm vẫn bị chia rẽ thành các thuyết cơ giới liên quan. Loài chim này được tôn sùng trong thần thoại Hindu và thần thoại Hy Lạp và là quốc điểu của Ấn Độ. Công Ấn Độ được liệt kê là loài ít quan tâm bởi IUCN.
Công Ấn Độ là 1 trong các nhiều loài được Carolus Linnaeus miêu tả lần đầu trong tác phẩm Systema Naturae của ông năm 1758 và cho đến nay danh pháp khoa học vẫn sử danh pháp thuở đầu là Pavo cristatus. Danh pháp Latin của chi là Pavo. Trong tiếng Anglo-Saxon, từ pawe (danh từ "peacock" phát sinh từ đây) được tin là từ tượng thanh về nguồn gốc của loài và dựa trên tiếng kêu thông thường của loài chim này. Danh pháp loài cristatus dựa trên chiếc mào chim. Việc dùng sớm nhất tên loài chim này trong văn bản tiếng Anh từ khoảng năm 1300. Những biến thể chính tả gồm có pecok, pekok, pecokk, peacocke, peocock, pyckock, poucock, pocok, pokok, pokokke, và poocok giữa những tên khác. Cách viết hiện nay được xuất bản vào những năm vào cuối thế kỷ XVII. Chaucer (1343–1400) dùng từ ngữ này để chỉ một người kiêu kỳ và phô trương trong văn ví von của ông "kiêu kì như pekok" trong ấn phẩm Troilus và Criseyde (quyển I, dòng 210). Trong tiếng Hy Lạp peacock được gọi là taos và được thuật lại trong tiếng Ba Tư "tavus" (như trong Takht-i-Tâvus trong tác phẩm Peacock Throne). Trong tiếng Do Thái, từ tuki (số nhiều tukkiyim) được cho là có nguồn gốc từ tiếng Tamil tokei nhưng đôi khi cũng có dính dáng đến tiếng Ai Cập, từ tekh. Ngoài ra tại website Dagablv.com còn phát trực tiếp đá gà thomo để anh em giải trí.
0 Comments
Leave a Reply. |